Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các bên đương sự. Việc chứng minh phải thông qua các chứng cứ.
I/ Chứng cứ trong tố tụng dân sự
1/ Chứng cứ là gì?
Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.”
Các thuộc tính của chứng cứ:
– Tính khách quan: những sự kiện, tài liệu có thật, không bị xuyên tạc, bóp méo theo ý chí chủ quan của con người, phản ánh trung thực những tình tiết diễn ra của sự việc;
– Tính liên quan: mối liên hệ khách quan giữa chứng cứ và tình tiết phải chứng minh;
– Tính hợp pháp: được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
2/ Nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ
Nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ như sau:
– Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử:
+ Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
+ Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
+ Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
– Vật chứng: là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
– Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng: được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
– Kết luận giám định: được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ: được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
– Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản: được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
– Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập: được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
– Văn bản công chứng, chứng thực: được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
– Các nguồn khác mà pháp luật có quy định: được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
II/ Thu thập chứng cứ như thế nào?
Đương sự thu thập chứng cứ bằng các cách:
– Tự thu thập:
+ Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu điện tử;
+ Thu thập vật chứng;
+ Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý;
– Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng;
– Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ;
– Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản;
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật.